Đọc "Những hạt bụi đời níu chân", tôi chợt nhớ đến một tứ thơ của R. Tagore - nhà thơ lớn người Ấn Độ - Giải thưởng Nobel văn chương năm 1913, trong đó có hai câu làm nhiều độc giả phải ngẫm nghĩ: "Khi những đứa trẻ xúng xính trong bộ áo quần vương giả/ Cũng là lúc chúng đã đánh mất đi những hạt bụi đời trong sạch của mình".
Hồi Nhật đảo chính Pháp ở Hà Nội (9.3.1945), Trần Văn Nhung theo Nhật đánh Pháp và bị tử thương. Thời gian học ở khu học xá Nam Ninh, Lộc bị bệnh sa ruột (gọi là sa đì) phải vào chữa ở bệnh viện Nam Ninh. Đúng lúc ấy, Nguyên Hồng cũng sang điều trị tại đấy, và
CUỘC PHIÊU LƯU GIỮA TRẦN AI CÁT BỤI khi giữ chân phóng viên ở Nam Trung bộ, khi cùng với Xuân Thủy, Nam Cao, Trần Đình Thọ lo làm báo Cứu quốc dưới chân núi Phia Boóc (Hoa Sơn), khi được kéo về phụ trách nhiều mặt công tác khác nhau ở Hội Văn nghệ, rồi Hội Nhà văn
Ký Ức Đông Dương. Tác giả: Tô Hoài. Thể loại: Hồi ký - Bút ký. Tải xuống: AZW3 EPUB MOBI PDF. Bạn đọc đang cầm trên tay bản in mới nhất, đầy đủ và hoàn thiện nhất do chính bố tôi, Nhà văn Tô Hoài đọc và sửa chữa trước lúc đi xa một thời gian. Đã từ lâu từ khi
Bao trùm cả quãng dài với nhiều biến động, những trang viết của Tô Hoài khắc họa số phận con người, trong đó có không ít gương mặt văn nghệ là bạn bè tác giả với những cảm xúc buồn vui lẫn những điCát bụi chân ai là những hồi tưởng về câu chuyện của giới văn nghệ sĩ từ trước những năm 45 đến thời kháng chiến.
Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. Bài đọc sách này tôi viết cách đây 21 năm, khi đang là biên tập viên báo Tuổi Trẻ. Do bị Tuổi Trẻ lắc đầu, tôi đã đưa sang in ở báo Phụ Nữ, số thứ Tư 3/3/1993 lúc ấy Thế Thanh đương là tổng biên tập, trong khi Kim Hạnh đã thôi tổng biên tập báo Tuổi Trẻ từ 1991. Tôi đã đọc tập hồi ký đầu tiên của Tô Hoài sau đó có thêm Chiều Chiều và Ba người khác với tất cả sự xúc động của một kẻ hậu sinh, mà nhờ tập sách, có thể hình dung được những gì mà thế hệ cha anh mình đã phải trải qua trong đời cầm bút. Và tôi biết ơn tác giả, đã đủ cả dũng cảm lẫn tài năng để vẽ lại bức toàn cảnh một thời ấy. Và tôi cảm thấy những thị phi quanh nhà văn này không còn quá quan trọng. Nếu ông ẩn nhẫn là để có thể viết và lưu lại cho đời sau những tác phẩm thế này, như một người “thư ký thời đại” đúng nghĩa, ông xứng đáng được vinh danh và yêu quý. NỐT NHỮNG GIỌT CUỐI ĐỜI Hình như cùng với cốc rượu, ông già bảy mươi ấy đang kề cà, rỉ rả, tiện đâu nhớ đó, tiện đâu nhắc đó, thành lời, thành chữ, thành một cuộc gọi hồn tập thể không có đèn hương, chỉ bằng nỗi chân tình. Chẳng phải vô cớ mà hai chân dung ấy bỗng nổi bật đến thế, rõ ràng, sắc nét đến thế. Một Nguyễn Tuân khủng khỉnh, dềnh dàng, tao nhã mà sắc cạnh, kẻ mắc chứng đi, bởi thứ nghiệp chướng “Ta muốn khi ta chết đi/ Da ta được thuộc làm cái va li”. Nguyễn Tuân, người chỉ nhấm nháp để thưởng thức mọi hương hoa của cuộc sống, người chỉ làm cái gì mình thích, đúng với cung cách của một con nhà danh gia đại thần. Còn Nguyên Hồng, xuềnh xoàng, lếch thếch, gặp đâu hay đó, chẳng phân biệt sang hèn, ngon dở, chấp nhận cuộc đời ở tất cả mọi dáng vẻ. Nguyễn Tuân ghét mùi hoa sữa quá gắt, ngay giữa rừng cũng chỉ ăn thịt bò nấu lần đầu, và đi hát Khâm Thiên cũng chỉ dan díu với giọng ca sang nhất. Nguyễn Tuân bị lấy cắp xe đạp và từ đấy không đi xe đạp nữa. Nguyễn Tuân chỉ lặng yên ngồi nghe trong những cuộc phê bình kiểm điểm thời 1957, 1958, nhưng trong đêm Nô- en Hà Nội đang đương đầu với bom Mỹ, đã cho chuẩn úy phi công bị bắn rơi Giôn một bài học “Bao giờ được về thì nhớ học lại địa lý. Không có hai nước Hoa Kỳ, không có hai nước Việt Nam…”. Nguyễn Tuân, người lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm cái này ông phải viết, cái này tôi phải viết, cái người đã nuốt xương cốt đến cả chục con hổ Lai Châu, hổ Xiêm Lào ấy rồi cũng tới lúc phải chống nạng và uống thuốc trợ tim vì chứng thấp khớp, chấp nhận đứng ngoài những cuộc lên đường. Nguyễn Tuân, người được vẽ như một con sư tử, rồi cũng đến lúc phải từ biệt cuộc đời, để lại bao nhiêu câu nói trứ danh, kiểu “tao ghét đứa nào uống rượu để nhắm thằng khác uống rượu” hay “bao giờ tao chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình”… Còn Nguyên Hồng, mau nước mắt, ngày đêm đi đâu cũng kè kè chiếc cặp đựng bản thảo, có thể chứa từ thịt chó ăn thừa đến miếng giấy dầu để dùng vào cái việc cực gay gắt. Nguyên Hồng uống rượu chợ, nhắm ổi, cà muối xổi, bánh cuốn thì làm luôn cả chục. Nguyên Hồng nằm xoài ra lề đường để thưởng thức tẩm quất dạo, mê từ bà chủ quán bia cho tới chị hàng xén. Nguyên Hồng không đi Sài Gòn đã giải phóng dù chưa từng tới cái xứ sở của chính nhân vật Năm Sài Gòn của mình. Nguyên Hồng khóc khi bị chủ quán người Tàu đuổi vì gói thịt chó, khóc cả khi ăn những dĩa lốc bểu Lạng Sơn bốc khói chạnh nhớ tới quê hương Hải Phòng. Nhưng lần khóc quy mô nhất có lẽ là vào những buổi kiểm điểm triền miên lúc phụ trách tuần báo Văn của Hội Nhà Văn thời kỳ 1957. Trong những buổi ấy, Nguyên Hồng cứ vuốt đi vuốt lại chồng báo, nước mắt đầm đìa “Tôi thức đêm thức hôm.. bỏ hết sáng tác… ngày đêm chỉ nghĩ đến tờ báo… Bài này đề tài công nhân… bài về kháng chiến… bài về thống nhất… Tôi không thể… không thể…” . Nguyên Hồng khi đọc bài Tô Hoài viết để đăng báo đã hét vào mặt Tô Hoài “Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn! Ông thì không, Nguyên Hồng thì không!… Đủ, đủ lắm rồi. Ông đ. chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam!” . Nói là làm, vơ chồng con cái dắt díu nhau, mang vác nhau về lại vùng đồi heo hút ngày xưa kháng chiến, chẳng tơ màng gì đến thứ bụi bặm chốn phồn hoa. Nguyên Hồng, người ung dung nơi xó rừng với bàn viết là cái chõng tre và chiếc chiếu trải trên nền đất, người duy nhất đã xin về hưu non với cái cười hả hê thách thức “Ông đố đứa nào bắt chước được ông đấy!”. Còn nữa. Còn Phan Khôi với cái tính ngang như cua. Mười giờ đêm, khi tướng Nguyễn Sơn đang oang oang kể chuyện trong nhà họp, Phan Khôi ngủ không được đã đi xuống, thò đầu vào cửa phòng quát “Nói to như thế không sợ bị đứt cổ à?” , rồi quay ra, lại chui vào màn. Còn Xuân Diệu với nước mắt và sự lặng câm trong những tối bị kiểm điểm bởi tư tưởng tư sản trong những mối tình trai không bao giờ được thỏa. Còn Nguyễn Bính với báo Trăm Hoa khi bị phê bình nhắc nhở đã trả lời Tô Hoài “Trăm Hoa phải thế mới là Trăm Hoa của Nguyễn Bính. Nếu không thì mày làm quách, cho xong!” . Nguyễn Bính với câu chuyện thương tâm về đứa con không mẹ, mà vào một đêm say rượu, người bố ấy đã trao cho một người qua đường tình cờ nào đó, để hàng bao nhiêu năm sau, cứ mỗi lần nhắc đến, lại đầm đìa nước mắt. Còn Nguyễn Huy Tưởng mà ở mỗi người bạn, mỗi cán bộ cấp cao, Nguyễn Huy Tưởng đều tìm ra những ưu điểm và tô hồng rầm rộ, khi xảy ra sư kiện Hungary 1956 đã nói “Nước Hungary trong phe xã hội chủ nghĩa, nhưng trước nhất, nước Hungary là nước Hungary đã. Ông thấy thế nào? Tôi không hiểu, tôi không hiểu sao”. Còn đội viên giảm tô Nguyễn Tư Nghiêm cả tuần không xâu chuỗi được bần có nông nào, hoảng quá, phát dại, suốt ngày vơ vẩn ngoài đồng, bắt cào cào châu chấu ăn sống. Còn Ngô Tất Tố ở Chợ Chu, khi bị một kẻ không ra gì lên lớp, đã khóc, quệt nước mũi vào gốc cây, sụt sùi với Kim Lân “Làm người khó lắm, bác ạ ” . Rồi Đặng Đình Hưng bị khai trừ khỏi đảng, Văn Cao bị kỷ luật cảnh cáo, Nguyễn Tư Nghiêm và Dương Bích Liên xin ra khỏi đảng, Hoàng Cầm ra khỏi Ban chấp hành… Rồi những truyện ngắn về con hổ, con chó xấu xí, cả con rùa con cá cũng trở thành có vấn đề! Chính Tô Hoài cũng phân vân, tự hỏi mình “Tôi theo đuổi lý tưởng từ những ngày bóng tối. Không có cách mạng, tôi làm sao nên người như bây giờ. Làm sao tôi lại có thể nghiêng ngả, có thể bị lũng đoạn được nhỉ… Tôi không tin tôi đến nỗi đù đờ thế”. Tô Hoài gắn bó với những chốn đèo heo hút gió nhất của rừng Việt Bắc, có mặt ở Cửa Tùng, Vĩnh Linh, lặn lội trong thành phố Hà Nội ngày đêm chống trả bom Mỹ, có mặt ở bao nhiêu miền đất khác trên khắp các châu lục. Tô Hoài nhậu nem rán với nhân nhau đàn bà đẻ cùng Nguyên Hồng, cũng lại cùng bàn với rượu rom thượng hạng Pháp. Tô Hoài ở giữa họ, giữa tất cả những bè bạn ấy, trong những câu dạy bảo, nhiếc mắng. Của Như Phong “Thằng ngoại ô láu cá, văn chương đẽo gọt”. Của NguyễnTuân “Tao chúa ghét cái thằng bợm bia rượu mà hàng ngày lại uống nước lạnh… Chó biết cái thằng này thế nào là thật! Tao ghét cái cười mủm mĩm hiền lành không hiền lành của mày”. Tô Hoài tự nói về mình “Tôi sinh ra nơi thành phố làng mạc lẫn lộn, túi bạc đâm toạc tờ giấy, có tiền là có tất cả, bấy lâu tôi lăn lóc trong khóe đời ấy”. Để rồi khi Nguyễn Tuân đã bỏ đi, Tô Hoài tưởng như mình vẫn ngồi uống một mình, để bật khóc khô mấy tiếng “Ô hô, Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi!”. Cả một đám đông tài hoa, yêu nước, đầy hào khí mà cũng không thiếu những tai ương, đau khổ. Những nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ họa sĩ… ấy, công dân của một đất nước trải qua bao chìm nổi, cũng chẳng thể nào từ chối được thân phận ba chìm bảy nổi của mình. Chỉ có điều là dù ngoài mặt cố gượng cười thì trong lòng vẫn cứ héo dần đi. Hầu hết những người Tô Hoài nhắc tới đều đã ra người thiên cổ. Nhưng dưới những lời kể miên man tưởng chừng chợt nhớ chợt quên của Tô Hoài, họ bỗng sống lại, đi đứng, nói năng với tất cả những gì riêng tư sâu kín nhất mà chỉ những người đồng cảnh mới có đủ yêu thương để thấu hiểu và chia sẻ. Mà nếu không hiểu được con người họ, thì người đời sau cũng chẳng bao giờ hiểu được hết giá trị của tác phẩm, cũng như cái giá họ phải trả để mang nặng đẻ đau và che chắn những đứa con tinh thần đã ra đời trong hoàn cảnh vô cùng ngặt nghèo gian khó ấy. Đánh giá
Được tin nhà văn Tô Hoài vừa mới qua đời vào tối ngày 6/7 năm 2014 tại Hà ta được biết đến ông với tác phẩm kinh điển thời trẻ thơ là “Dế mèn phiêu lưu ký”. Hầu hết các độc giả không hiểu được tại sao Tô Hoài lại thích viết truyện thiếu nhi đến thế, nhưng nếu gọi truyện của ông là thiếu nhi thì e rằng cũng không hoàn toàn đúng. Trong các tác phẩm của ông thấm đẫm chất phiêu du. Không phải chỉ ở “Dế mèn phiêu lưu ký” mà ngay cả những “O chuột”, “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”… Chất phiêu du này vẫn tiếp tục được bày tỏ không giấu diếm trong tập hồi ký “Cát bụi chân ai”.“Cát bụi chân ai” được xuất bản năm 1992, hồi tưởng về những câu chuyện của giới văn nghệ sĩ từ trước những năm 45 đến thời kháng chiến. Dù trong thời kháng chiến gian khổ, nhưng vẻ hào hoa của các văn nhân, thi nhân vẫn không suy giảm, cùng với tình bạn sâu sắc. Vẻ đẹp của các nhà văn, nhà thơ ấy phần nào đó giống Dế Mèn, Dế Trũi trong “Dế mèn phiêu lưu ký”.Với một số độc giả thích tìm hiểu về đời tư của các nhà văn, nhà thơ thì cũng có thể tìm thấy trong cuốn hồi ký này. Ví dụ như những cử chỉ đồng tính của nhà thơ Xuân Diệu, cái thói quen ăn uống của Nguyễn Tuân…v…v…Với Cát bụi chân ai - Tô Hoài đã khắc họa thành công các hình tượng Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Xuân Diệu… và giúp chúng ta hiểu rõ hơn về một thời đại văn học. Đặc biệt Tô Hoài không tô vẽ cầu kỳ, không thiêng liêng hóa hình tượng Nguyễn Tuân nhưng chân dung Nguyễn Tuân không vì thế mà mất đi vẻ khả ái, đẹp đẽ và ấn tượng. Chỉ điểm xuyết về con người Nguyễn Tuân trong giai đoạn tiền chiến, rồi đi ngược lại mãi về một thời rất xa, cứ thế cuộc đời dấn thân của Nguyễn Tuân như Tô Hoài biết từ sau 1945 tới nay hiện lên sinh động với tất cả những gì bình dị và thân thương nhất..."Mở đầu bằng mối giao tình giữa Tô Hoài và Nguyễn Tuân. Kết thúc bằng cái chết của Nguyễn Tuân. Giữa hai nhà văn đó là những kiếp nhân sinh chập chờn như những bóng ma trơi. Giữa hai nhà văn đó là không khí ngột ngạt của văn nghệ, kháng chiến, cách mạng và chính trị. Giữa hai nhà văn đó, cho tới khi có một người nằm xuống, đã một nửa thế kỷ trôi qua..."Trích dẫn hay- Rồi lại quay ra, ngồi lên bó củi, một tay đấm lưng, tay kia gõ cái ống nứa giả vờ điểm tiếng róc phách, chốc lại tom chát đánh nhịp xuống thành thùng bát, miệng ư ừ giọng mũi như rên “Nam nhi đứng ở trong trời đất Quyết ăn chơi cho đủ mùi đời Sự cùng thông bĩ thái tự trời Sông có khúc con người có lúc… “- Những chuyện trời đất huy hoàng đâu đâu của người ta, còn chúng tôi vẫn kỳ thu, cặm cụi với cái bút máy, bút bi, bút toàn bộ tậphồi ký “Cát bụi chân ai”
Nhà thơ Xuân Diệu không chỉ nổi tiếng với một khối tài sản thi ca đồ sộ mà còn khiến dư luận quan tâm bởi cuộc sống riêng với nhiều tin đồn về giới tính thật. Mấy chục năm qua, câu chuyện về giới tính của nhà thơ Xuân Diệu luôn là đề tài được giới văn nghệ sĩ và độc giả quan tâm đặc biệt. Ở cuộc sống riêng của "ông hoàng thơ tình Việt Nam" luôn ẩn chứa những điều bí mật khiến người khác phải tò mò. Trong suốt một thế kỷ qua, nghi án giới tính của Xuân Diệu vẫn là một dấu hỏi lớn. Đến năm 1993, khi nhà văn Tô Hoài công bố cuốn hồi ký "Cát bụi chân ai" thì bạn đọc mới tìm thấy câu hỏi về giới tính của nhà thơ Xuân Diệu. Dưới đây là một số trích đoạn trong cuốn hồi ký của nhà văn Tô Hoài viết về "tình trai", về nỗi khổ tâm, dằn vặt của Xuân Diệu "Tôi quen Xuân Diệu trước 1945. Tôi cũng là người Xuân Diệu rủ đi nghe và cổ vũ Xuân Diệu lần đầu tiên thuyết đề tài Thanh niên với quốc văn ở giảng đường trường đại học Hà Nội. Xuân Diệu nói “Hoài đi ủng hộ Diệu”. Anh Hiến sinh viên mặt tái xanh nhút nhát ra giới thiệu lúng túng. Không sao, Xuân Diệu áo tuýt so lụa mỡ gà, cà vạt lấm tấm vàng sẫm, làn tóc rậm đen loăn xoăn trên đài trán đã thu hút người nghe vào ngay câu chuyện. Đột nhiên Xuân Diệu nói nhịu chữ “tâm hồn”- như một bà già trong làng bán bánh đúc có tật nói nhịu nhảm. Nhưng Xuân Diệu vẫn tiếp tục sang sảng hùng biện, không ai kịp sửng sốt. Xuân Diệu và Huy Cận lên Nghĩa Đô, ở chơi cả buổi và ăn cơm. Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá, hơi lạ với tôi, nhưng mà tôi cảm động. Tôi sướng mắt nhìn tập thơ, thơ khổ rộng nhà in Trung Bắc phố Hàng Buồm. Hai chữ Xuân Diệu nét chì sắc gợn, không phải chữ gỗ dẹp đét. Nhà thơ Xuân Diệu. Ảnh internet Thỉnh thoảng, Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn nắm tay cả buổi, nhìn tha thiết. Xuân Diệu yêu tôi. Nhớ những tình yêu con trai với nhau, ở trong làng và ở lớp, khi mới lớn. Học lớp nhất trường Yên Phụ, nói vỡ tiếng ồ ồ, mặt xùi trứng cá, chúng nó cứ bảo tôi là con gái. Nhiều thằng cặp đôi với tôi, đòi làm vợ chồng. Có hôm chúng nó tranh vợ đánh nhau lung tung. Có đứa xô vào ôm chặt, sờ soạng toạc cả đũng quần tôi. Nhiều hôm đi học không dám đến sân trường sớm. Phải lẩn vào trong ngõ Trúc Lạc, nghe trống mới chạy ù đến xếp hàng vào lớp. ..... Cả dạo mưa gió, Xuân Diệu ở lại u tỳ quốc không ra ngoài. Giọt gianh lách tách mái nứa gọi về những đêm ma quái, rùng rợn, say đắm. Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay người đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên như ngọn lửa đen không có ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm dần lên. Chẳng còn biết đường ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quýt, cánh tay, cặp đùi thừng chão trói lại, thít lại, dằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, dữ dội dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi bàn tay dịu dàng lại vuốt lên mặt. Lần này thì tôi lử lả, tôi nhuôi ra rên ư ử, như con điếm mê tơi không nhớ nổi người thứ mấy, thứ mấy nữa. Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết. Tôi he hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa. Nhưng đêm mai lại vào cuộc dữ dội. Trong đêm quái quỷ lại thấy hình như không phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại sáng. Cho đến khi thật thấy rạng sáng mới rờn rợn". Khi bị phát hiện chuyện giới tính, bị kiểm điểm, Xuân Diệu chỉ biết khóc trong sự dằn vặt, đau đớn. Tô Hoài kể "Xuân Diệu chỉ ngồi khóc, chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, thằng Đại và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, nhưng cũng không ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng điên kia mà. Không nói cụ thể việc ấy, nhưng ai cũng to tiếng gay gắt “tư tưởng tư sản, phải chừa đi”. Xuân Diệu nức nở “tình trai của tôi…tình trai…” rồi nghẹn lời, nước mắt lại ứa ra. Ít lâu sau, trong một cuộc họp ban chấp hành, Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường vụ. Và cũng thành một cái nếp kéo dài, từ đấy không ai nhắc nhở đến những việc chủ chốt trước kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người hiếm thì giờ chỉ chuyên đi viết. Mà Xuân Diệu cũng tự xa lánh mọi công tác." Thời của Xuân Diệu, Luật pháp nước ta chưa thừa nhận quan hệ đồng tính như bây giờ. Chính vì thế, nỗi đau, sự thiệt thòi của Xuân Diệu càng nặng trĩu hơn. Nhà thơ Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916, ở làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Bên cạnh sáng tác thơ, Xuân Diệu còn viết cho các báo như Ngày Nay và Tiền Phong. Sau đấy ông tham gia sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam. Trong suốt cuộc đời cầm bút, Xuân Diệu đã viết tổng cộng khoảng trên trang sách có giá trị. Ông đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất 1985 và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I, năm 1996. tổng hợp
hồi ký cát bụi chân ai